ĐẾ SƯ
Chương 6: Nhân họa
Edit: Ôn Khách Hành
Beta: Mimi, Ame
*****
Người đang ngồi trên công đường kia, chính là Chỉ huy sứ của Cẩm y vệ – Mâu Bân.
Bởi vì người này cương trực, sử xự công minh, ít khi dùng hình bức cung, cho nên được Hoài Ân công công (1) để cử, từ một Thiên hộ (2) được thăng lên làm Thiêm sự (3) của Cẩm y vệ, sau đó lại được Hoằng Trị đế tán thưởng, một lèo nhảy lên địa vị Chỉ huy sứ này.
(1) Hoài Ân: chưởng quản Tư lễ giám vào thời Minh Hiến Tông, tức là cha của Hoằng Trị đế
(2) Thiêm hộ: 1 chức quan quản lý ở cấp phủ châu
(3) Thiêm sự: 1 chức quan xử án
Trong khoảng thời gian hắn quản lý phủ ti Bắc trấn, chuyện bức cung hầu như chưa từng phát sinh, xử oan án sai lại càng cực kỳ ít gặp.
Năm ngoái, hắn từng vừa chống trọi với áp lực từ phía ngoại tộc, vừa giúp lật lẩy án oan cho Hộ bộ thị lang đương nhiệm – Lý Mộng Dương. Bởi vậy, dù thân là chó săn cho thiên tử, nhưng danh tiếng của hắn quả thật là trong sạch hiếm thấy.
Lần này, hắn thừa lệnh vua, cưỡi ngựa đi theo Tuần sát Ngự sử về phía Bắc, tra xét phòng tuyến lỏng lẻo của vùng Ninh Hạ, khiến đám đầu trộm đuôi cướp phải âm thầm khiếp sợ. Không ngờ, chuyện còn chưa kịp xong, lại nảy sinh một vụ án khác…
Gương mặt Mâu Bân căng thẳng, hai đầu mày cau lại thành chữ xuyên, ánh lửa chiếu trên mặt, lúc sáng lúc tối, hoa văn hình thú trên chiếc áo Cẩm y vệ cũng hiện ra vài phần dữ tợn.
“Cố Khanh!”
“Vâng!”
“Theo lời của ngươi, Tuần sát Ngự sử cũng biết?”
“Bẩm Chỉ huy sứ, quan địa phương và hoạn quan trấn thủ cùng một giuộc với nhau, kéo vây kéo cánh, lừa trên gạt dưới. Thuộc hạ không dám tự ý làm bừa, chỉ có thể đưa người cầm cáo trạng vào kinh, xin chỉ thị.”
Cẩm y vệ muốn điều tra thông tin, đều sẽ có những con đường sáng tối khác nhau.
Nhận được tin này, hắn vẫn chưa báo lại cho vị Ngự sử đi cùng.
Thứ nhất, thời gian cấp bách. Thứ hai, Đô Ngự sử (*) vẫn chưa trình báo tình hình ở đây trên bản tấu, hắn thực sự không dám mạo hiểm. Ngộ nhỡ, mấy vị Ngự sử lại có dính dáng với nhau, tiết lộ tin tức, e rằng chuyện này sẽ lại càng khó giải quyết hơn.
(*) Đô Ngự sử: làm việc trong Đô sát viện, có đặc quyền được hạch tấu tất cả mọi chuyện có ý nghĩa can gián những chuyện không tốt của vua cũng như của quan lại.
Khi bẩm báo, Cố Khanh đứng dưới công đường, dáng người cao ngất, đầu ngẩng lên, thanh âm có chút trầm, nhưng không hề mang vẻ lạnh nhạt.
Mâu Bân không đưa ra quyết định luôn, chỉ dùng ngón tay có vết chai mỏng gõ gõ trên bàn, một tiếng rồi lại một tiếng.
Giáo úy dưới công đường, nín thở ngưng khí, động cũng không dám động.
Chỉ huy sứ chính trực, không sai. Có điều cũng vì người này xử sự công bằng, không màng tình riêng, mới càng khiến cho cấp dưới kính sợ.
Trong khoảng thời gian Mâu Bân chấp chưởng các phủ ti từ Nam đến Bắc, ảnh hưởng của hắn vượt xa người tiền nhiệm.
Tuy rằng hắn phụng mệnh giám sát đội Cẩm y vệ Đông xưởng, song cũng không ai dám chống đối lại hắn. Về phần vị Đề đốc Đông xưởng, cơ bản cũng chẳng khác gì một thứ đồ trang trí, chỉ cần hơi vượt khỏi phạm vi một chút, không cần Cẩm y vệ báo cáo, thân tín bên người Hoằng Trị đế sẽ ra tay xử lý đầu tiên.
(*) Đông xưởng và Đề đốc Đông xưởng đã chú thích chi tiết ở Văn án.
Ánh lửa lay động, thỉnh thoảng truyền đến tiếng đồm độp.
Duy trì trầm mặc trong chốc lát, rút cuộc Mâu Bân cũng mở miệng hỏi, “Hiện tại người đang ở đâu?”
“Được thu xếp ở phủ ty trấn Nam.”
“Phủ ty trấn Nam?”
“Vâng!” Cố Khanh ôm quyền, khóe môi khẽ giương, “Chuyện này liên quan đến đủ các cấp bậc từ trên xuống dưới của cả một phủ châu, thái giám trấn thủ, quân đội thủ biên đều không tránh khỏi liên quan, trước khi chuyện này được điều tra rõ ràng, chỉ có phủ ty trấn Nam mới có thể thu lưu hắn.”
Chuyện liên quan tới đám quan văn quan võ và thái giám trấn thủ biên cảnh, không cần biết luật lệ của Hình bộ như thế nào, chỉ cần nhảy vào thì đừng nghĩ sẽ được an lành đi ra, chắc chắn là chết không đối chứng.
Chính trị dù có trong sạch hơn nữa thì hệ thống quan lại ngàn năm cũng không thể phá vỡ một cách dễ dàng.
Mặc dù dưới triều đại Hoằng Trị, nhưng chuyện trên dưới cấu kết, trao đổi tin tức, thậm chí là quan lại bao che lẫn nhau, lúc nào cũng vẫn tồn tại. Chẳng qua là từ bàn tiệc chuyển xuống dưới sân khấu, các đại thần cũng nhắm một con mắt mở một con mắt, không gây ra chuyện sai lầm gì thì cũng sẽ không điều tra quá kĩ càng.
Đạo đối nhân xử thế, luôn là như vậy.
Nhổ củ cải lúc nào cũng sẽ kèm theo bùn, đi ở bờ sông, ai có thể khẳng định vạt áo mình không dính nước, giầy tất sạch sẽ tinh tươm.
Lần này đám Mông Cổ hỏi thăm biên giới, Ninh Hạ, Tuyên phủ lần lượt bị tấn công, Linh Châu bị vây hãm đến nay vẫn chưa thể nào giải cứu. Tiếp đó, quân Mông Cổ lại càng quấy nhiễu Cư Dung quan (1), trực tiếp xông vào mấy trấn Liêu Đông, Thanh Hà. Hậu vệ Định liêu (2) chỉ huy toàn bộ sự việc không hề phòng bị, tạo cơ hội cho kẻ thù thoải mái xông vào, bắt sạch cả người lẫn ngựa.
(1) Cư Dung quan: là một đèo nằm ở quận Xương Bình ở ngoại ô Bắc Kinh, là một trong ba cửa ải chính yếu của Vạn Lý Trường Thành. Cư Dung quan có hai ‘tiểu quan,’ một ở phía nam thung lũng và một ở phía bắc. Cửa ải phía nam gọi là “Nam quan” và cửa ải phía bắc là “Bát Đạt Lĩnh“. Đây là một nơi có vị trí chiến lược hết sức quan trọng nối giữa vùng nội địa và khu vực gần biên giới phía bắc Trung Quốc. Nó được sử dụng để phòng thủ cho thành cổ Bắc Kinh.
(2) Hậu vệ Định liêu: cùng với Trung vệ Định liêu, Tả vệ Định liêu, Hữu vệ Định liêu đều là chức danh trong bộ binh ngày xưa.
Tin được báo vào triều, Hoàng đế tức giận ném cả tấu chương, bộ binh bị trách tội. Liên tục mấy ngày, buổi triều sớm đều là mây đen áp đỉnh, tiếng sấm oanh minh, kể cả khi tự mình diệt trừ vây cánh Vạn quý phi (*) cũng không thấy Hoàng đế tức giận như bây giờ vậy.
(*) Vạn quý phi: (1428 – 1487), tên thật là Vạn Trinh Nhi, là phi tần được sủng ái nhất của vua Minh Hiến Tông nhà Minh (cha của Hoằng Trị đế). Vạn thị đắc sủng, năm 1466 mang thai sinh hoàng trưởng tử được một tháng thì chết yểu. Do tuổi cao (ngoài 30) không thể hoài thai, Vạn thị sợ Hiến Tông ghẻ lạnh nên bắt giết các phi tần có long thai và con cái của họ. Trong các phi tần, Kỷ thục phi có nhan sắc tuyệt diệu khiến Hiến Tông mê mẩn không rời. Năm 1470, Kỷ thị mang thai sợ bị Vạn thị giết nên một hoạn quan là Trương Mẫn giấu bà vào An Lạc Đường bí mật dưỡng thai, nhờ đó giữ mạng sống đứa bé. Mùa xuân 1475, Hiến Tông triệu Trương Mẫn vào cung hầu hạ rồi than: “Ta đã già mà không có nổi một đứa con để nối dõi!” Trương Mẫn kể lại chuyện mẹ con Kỷ thị. Hiến Tông mừng rỡ phái người đón đứa bé vào cung, đặt tên là Chu Hựu Đường (sau là Minh Hiếu Tông cũng chính là Hoằng Trị đế). Vạn thị tức giận sai người giết Kỷ thị.
Chuyện này cũng không đơn giản, Cố Khanh trình báo, văn võ quan quân nơi biên cảnh mượn danh triều đình hà hiếp dân chúng, bức chết trăm người, tham ô quân phí.
Biết Cố Khanh đang giữ nhân chứng, Mâu Bân lộ ra vẻ mặt u ám, bất chợt dừng gõ ngón tay, nắm chặt cả bàn tay lại.
“Ngươi thuật lại mọi chuyện một lần nữa!” Hắn bỗng nhiên ngừng một chút, lại lệnh Giáo úy gọi Kinh lịch (*) của phủ ty trấn Bắc tới, “Ghi lại từng câu từng chữ, một câu cũng không được thiếu, bản quan muốn đích thân dâng bản tấu này lên cho hoàng thượng.”
(*) Kinh lịch: người ghi lại những chuyện mắt thấy tai nghe
“Chỉ huy sứ, chuyện này vô cùng trọng đại, liên quan tới rất nhiều người, xin hãy suy nghĩ lại.”
Thiêm sự trưởng ở phủ ty trấn Nam sợ chuyện lộ ra sẽ đắc tội với nhiều người, mở miệng ngăn cản.
“Chỉ huy sứ! Đây là chuyện lớn, ngài hãy nghĩ lại…”
“Nghĩ lại sao?”
Mâu Bân cắt lời đối phương, cười lạnh, chỉ vào chiếc ghế đơn bên trái, nói, “Ngươi cứ ngồi xuống, cùng nghe. Việc này ta sẽ tự lo, là phúc hay họa, bản quan đều sẽ một mình gánh chịu.”
Quản sự nào dám ngồi, vội vàng ôm quyền khom người, lui sang bên cạnh, trán chảy mồ hôi cũng không dám lau.
Từ đầu đến cuối, Cố Khanh không hề bị ảnh hưởng một chút nào.
Khác với vệ binh kinh thành, xuất thân của Cố Khanh là lính biên cương, tổ tiên hắn từng có công dẹp loạn, sau lại bởi vì phạm tội trong sự biến Thổ Mộc bảo (*), toàn tộc bị đày đến Cư Dung quan.
(*) Sự biến Thổ Mộc bảo hay Sự biến Thổ Mộc là cuộc chiến xảy ra vào ngày Nhâm Tuất (15) tháng 8 năm Kỉ Tị (1 tháng 9năm 1449) tại biên giới Đại Minh giữa quân đội nhà Minh và lực lượng của bộ lạc Ngõa Lạt (Oirat) Mông Cổ. Trong trận chiến này, lực lượng nhà Minh vốn đông đảo hơn đã thất bại hoàn toàn trước đội quân của Ngõa Lạt do Dã Tiên thai cát chỉ huy, toàn bộ bộ chỉ huy của quân Minh bị tiêu diệt hoặc bắt sống trong đó có Minh Anh Tông Chu Kỳ Trấn, hoàng đế đương triều của nhà Minh. Với việc toàn quân bại trận, hoàng đế bị bắt sống, Sự biến Thổ Mộc bảo được coi là thất bại quân sự lớn nhất trong lịch sử nhà Minh và là bước ngoặt đánh dấu sự thay đổi cán cân quyền lực ở biên giới phía Bắc Trung Quốc giữa nhà Minh và các bộ tộc gốc Mông Cổ.
Nam nhân Cố gia đều xuất thân từ quân ngũ, liên tiếp lập chiến công nhưng không được lên chức. Mãi đến khi Đại Tông, Anh Tông (*) lần lượt băng hà, Hiến Tông và Hoàng đế hiện tại xá tội cho không ít tướng quân có công nhưng bị hàm oan, Cố gia mới có thể xua tan mây mù đón ánh mặt trời, hơn nữa còn nhờ tổ tiên có công mà được ban nhà cửa, thưởng tước vị.
(*) Minh Đại Tông hoàng đế thứ 7 nhà Minh trong lịch sử Trung Hoa. Minh Anh Tông là vị Hoàng đế thứ 6 và thứ 8 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì hai lần với niên hiệu Chính Thống từ năm 1435 tới năm 1449 và niên hiệu Thiên Thuận từ năm 1457 tới năm 1464
Cố phụ vì bị thương nên về hưu, hai đứa con nhà họ Cố đều là anh tài.
Con cả Cố Đỉnh gia nhập Kim ngô vệ (*), làm nhiệm vụ ở tiền điện, nay đã thành Thiêm sự. Thứ tử Cố Khanh gia nhập Cẩm y vệ, nay đã thành Thiên Hộ. Nếu không có gì bất ngờ xảy ra, cứ tình hình này, nhất định có thể lên tới chức Thiêm sự trưởng, một ngày nào đó, nhận trách nhiệm Chỉ huy sứ, chấp chưởng hai ấn tín phủ ty Nam – Bắc cũng không phải là không có khả năng.
(*) Kim ngô vệ; cũng giống như Cẩm y vệ đều là thân binh, có trách nhiệm bảo vệ an nguy cho vua
Từ sau thời Vĩnh Lạc (*), thân phận của chỉ huy sứ quả thật rất cao quý, xuất thân sơ sài như Mâu Bân, đúng là đã ít lại càng thêm ít.
(*) Vĩnh Lạc niên hiệu vua Thành Tổ thời Minh, ở Trung Quốc, 1403-1424
Thân phận, năng lực, nhân tình, Cố Khanh đã có hai thứ. Thứ còn lại chỉ chờ vào biểu hiện trong tương lai của hắn mà thôi.
Mâu Bân đã hạ quyết tâm thì sẽ không thay đổi.
Cố Khanh đứng giữa công đường, mắt không hề chớp, nói năng rành rọt rõ ràng.
“Trước đó triều đình có lệnh, yêu cầu hai phủ Chính Định, Bảo Định hiệp trở phụ Thuận Thiên hai nghìn phu dịch. Tuyên Phủ, Đại Đồng cũng điều tới hai nghìn năm trăm người, để phòng ngự ở doanh trại Qúy Dương. Mỗi tháng phu dịch được phát cho một lượng bạc bốn đồng tiền, ngoài ra còn có lương thực.
(*) Chính Định, Bảo Định, Thuận Thiên, Qúy Dương đều là địa danh của Trung Quốc.
Thấy Mâu Bân gật đầu, Kinh lịch múa bút như bay.
“Công bộ ban lệnh xuống, nhằm thẳng vào dân. Phu dịch không đủ, tăng thêm bốn phủ lao dịch, làm phục dịch hàng năm của Đại Minh. Nếu vẫn không đủ, mướn thêm bốn phủ dân phu. Hộ bộ chiếu theo sổ sách mướn phu dịch cần dùng, phát xuống bốn phủ ngân lượng.”
“Công văn gửi đi, không được tham ô ngân lượng, lăng nhục ngược đãi phu dịch đến mức phải bỏ trốn. Người vi phạm nhất định sẽ phải gánh trọng tội.”
Câu chuyện của Cố Khanh đột nhiên thay đổi, “Tuy nhiên thuộc hạ phụng mệnh đi về phía Bắc, gặp được tố giác của dân chúng biên cảnh, tướng quân canh giữ Tuyên phủ liên hợp với hoạn quan trấn thủ tham ô ngân lượng, đánh đập phu dịch. Chưa đến một tháng, số người chết vì bị thương đã lên tới cả trăm, gây họa cho muôn dân. Sau khi sự việc xảy ra, cũng không an bài thích đáng, lừa trên gạt dưới, câu kết với phủ nha, không báo lên triều đình.”
Nghe đến đó, hai tay Mâu Bân nắm chặt, mắt phóng hung quang, cơ hồ có khát vọng muốn cắn người.
Thiêm sự trưởng trước đó mới mở miệng ngăn cản, lúc này bỗng sợ xanh mặt, hài bắp đùi run run, hận không thể quay ngược thời gian.
“Đã tra ra nhà họ Dương ở Trác Lộc, nhà họ Trương ở Hoài Lai, nhà họ Hứa ở Diên Khánh đều là phu dịch, già trẻ trong tộc đều đã chết. Bên cạnh đó lại có nhà họ Diêm ở Trác Lộc, họ Lữ ở Hưng Hòa vốn là phu dịch, tuy nhiên đồng tộc có người làm quan trong triều, hối lộ tiền bạc cao thấp trên dưới một phen, thoát khỏi nghĩa vụ khổ sai, thậm chí, nối giáo cho giặc, cậy thế hoành hành, cưỡng ép người cùng quê, không cho họ đi cáo trạng.”
Âm cuối hạ xuống, cả công đường yên tĩnh. Trừ bỏ Kinh lịch còn đang múa bút không ngừng, từ Chỉ huy tới Thiêm sự, từ Giáo úy tới lực sĩ, đều không một ai dám lên tiếng.
Nhân họa như vậy, nghe rợn mà cả người!
Không tới một tháng, một phủ đã có hơn trăm người chết, bốn phủ cộng lại sẽ có bao nhiêu?
Thả cho đám Mông Cổ đi vào biên giới, cũng không chết nhiều người như vậy!
Ngay trong thời Hoằng Trị, đây là một chuyện quả thật là không thể tưởng tượng ra.
Kinh lịch dừng bút, Mâu Bân ấn quan ấn lên.
Công đường vẫn không ai lên tiếng, Thiêm sự trưởng đã tái mét mặt mày, bị Mâu Bân liếc mắt qua một cái, suýt ngã ngồi trên mặt đất.
Canh ba qua đi, canh tư đã tới.
Bên trong phủ ty trấn Bắc đèn đuốc sáng trưng, tất cả từ Chỉ huy sứ trở xuống đều một đêm không ngủ, mở mắt đến tận hừng đông.
Trong quán trọ Phúc Lai, Dương Toản một đêm ngủ say không mộng mị, hoàn toàn không biết chuyện phát sinh ở huyện Trác Lộc, lại càng không biết nhà họ Diêm dùng kế nham hiểm, hãm hại mười sáu mạng người cả trẻ lẫn già nhà hắn.
Thù hận hai nhà không thể giải, đến tận cuối đời, không chết không ngừng.
Bình mình, thư đồng hầu hạ Dương Toản rửa mặt, nhưng lại không dùng cơm, cất thư Dương Toản đã viết xong vào trong ngực, mau chóng ra khỏi quán trọ tìm người chuyển đồ nhanh.
“Tiểu ca muốn tìm người giao đồ nhanh?”
Tiểu nhị thấy thư đồng nóng ruột, vội hỏi, “Chú họ của tiểu nhân là người chuyển đồ nhanh trong thành, có mấy vị quan nha cũng biết tên, chắc chắn không phải kẻ lừa đảo. Hôm nay hắn đang muốn đi tới phía Bắc cùng với mấy tên bán hàng rong, nếu tiểu ca tin tưởng, tiểu nhân có thể thay ngài sắp xếp.”
Thư đồng mừng rỡ, đồng ý gặp chú họ của tiểu nhị kia, lại có chưởng quầy đảm bảo, lập tức lấy tiền bạc thư từ ra rồi nói địa chỉ rõ ràng.
“Nhà họ Dương, huyện Trác Lộc, châu Bảo An, hỏi qua một chút sẽ biết. Tứ lang nhà chúng ta là cử nhân, cả huyện không ai không biết.”
Người đưa thư đồng ý, mang theo thư rời đi.
Thư đồng làm xong chuyện, mới nhớ rằng mình còn đói. Ăn ba cái bánh màn thầu chỉ lưng lửng dạ, nó lại ăn một bát mì lớn, lau lau miệng, cuối cùng cũng thỏa mãn.
Trong phòng trọ, Dương Toản y như lời nói trước đó, bắt đầu đóng cửa tự học.
Thi Đình không hỏi sách cổ, chỉ luận chính trị.
Hắn đã nghiên cứu kĩ nội dung này, đa số là bàn luận chính trị thời cuộc, hiến kế bày mưu, làm tốt, tự nhiên sẽ tỏa sáng và được hoàng thượng coi trọng, làm không tốt việc tiến quan trong tương lai coi như đừng mong đợi gì.
“May mà không phải Bát cổ (*).”
(*) Bát cổ: một thể văn trong các cuộc thi khoa cử thời Minh, Thanh, đề bài đa phần là nghị luận văn chương.
Lục lại toàn bộ những bài văn Dương tiểu cử nhân đã làm trước đó, Dương Toản cẩn thận đọc lại từng bài một.
Thi Đình lần này, hắn chỉ hi vọng có thể trót lọt qua ải, mấy cái chuyện bỗng nhiên tỏa sáng khiến người kinh ngạc đích thực không nên làm, mà cũng đừng có ý định làm.
Lý Thuần, Trình Văn thấy Dương Toản dụng tâm học tập, tán thưởng không thôi, lại cũng vì thế mà không khỏi sinh ra vài phần hổ thẹn, lập tức đặt quyết tâm, về phòng nhấc bút, chuyên tâm chuẩn bị cho kỳ thi Đình.
Mấy vị sĩ tử không trúng bảng lần lượt ly khai, còn người trúng bảng thì bắt đầu khổ học. Trưởng quầy cùng tiểu nhị hết sức cẩn thận, nói cũng không dám lớn tiếng.
Không ngờ, thi Đình chưa tới, gió lạnh đã bắt đầu thổi.
Triều đình Hoằng Trị năm thứ mười tám, đã định trước là sẽ nổi lên một hồi mưa gió.
May 27, 2018 at 3:32 pm
sử xự công minh
—– xử sự
Hoài Ân công công (1) để cử
—– đề
từ một Thiên hộ
—– vậy là Thiên hay Thiêm? Trong chương 2 lần ghi là Thiên, chú thích lại ghi là Thiêm
chống trọi với áp lực
—– chống chọi
doanh trại Qúy Dương
—– Quý
hài bắp đùi run run
—– hai
Bình mình,
—– minh