ĐẾ SƯ
Chương 42: Thăng quan
Edit: Mimi – Beta: Ame
*****
Ngày Quý Tị, tháng năm, năm Hoằng Trị thứ mười tám, Hoàng đế được liệm, hôm sau liền phát tang.
Ngày Canh Thân, tháng sáu, Lễ bộ dâng tôn hào, tôn thụy là “Kiến thiên minh đạo thành thuần công chính thánh văn thần võ tới nhân đại đức kính Hoàng đế”, miếu hiệu “Hiếu tông” .
Tả thị lang Công bộ tập hợp thuật sĩ uyên bác chọn nơi núi sông đại cát, Giám chính Khâm Thiên giám chọn lựa ngày lành, sau cùng quyết định ngày Canh Ngọ tháng mười sẽ hạ táng Hoàng đế ở đài Tây của Mậu lăng, phát động quân dân cùng lao dịch khởi công xây dựng “Thái lăng” .
“Chính thế dồi dào, quy tụ được linh khí của núi sông và trời đất, có thể an giấc dưới chân thánh thần.”
Bản chú dẫn về nghi lễ được trình lên, Chu Hậu Chiếu không đồng ý ngay lập tức mà là lệnh cho trung quan Phù An, Lý Hưng, Đàm Quan cùng Hữu thị lang Công bộ – Vương Hoa xem xét đánh giá lại.
Sau đó nó ban sắc thư xuống Lễ bộ, nói Hoàng đế có di chiếu, không được nhiễu dân, phàm là quan binh đóng quân ở kinh thành thì đều miễn làm nhiệm vụ. Đồng thời, nó cũng lệnh cho Công bộ, tạm dừng những công trình không cấp bách, nếu không có ý chỉ, không được tùy tiện phát động dịch phu. Bất cứ ai làm trái, liền xét tội như quan lại Tuyên phủ, nghiêm trị tuyệt đối không tha.
Hai sắc lệnh phát xuống, quần thần đồng loạt cảm khái không thôi.
“Độ lượng lại thương dân, Điện hạ quả có tác phong của Tiên đế.”
“Quốc gia có hi vọng rồi.”
Giữa những tiếng tán dương không ngớt, Đại học sĩ Lý Đông Dương thế lại chẳng nói chẳng rằng, nhìn đi nhìn lại hàng chữ cuối cùng trên sắc lệnh, loáng thoáng nhíu mày.
Tạ Thiên kỳ quái hỏi: “Vì sao Tân Chi huynh mặt cau mày có? Thái tử điện hạ có đức, quả thật là phúc của vạn dân.”
Lý Đông Dương gật gật đầu, vẫn trầm ngâm không nói.
Cho rằng hắn đang buồn thương vì tiên đế, Tạ Thiên không nói gì thêm, ngược lại quay sang thương nghị với Lưu Kiện về việc để Thái tử lên triều nghe báo cáo và quyết định công vụ.
Một mình đứng bên cửa sổ, Lý Đông Dương một tay chắp sau lưng, phóng tầm mắt xuyên qua màn mưa lất phất, càng lúc lại càng trầm mặc hơn.
Ngày Bính Thìn, Lễ bộ dâng tấu, đám trung quan Phù An và Thị lang Vương Hoa đều đã xem xét kỹ địa thế được chọn để xây lăng mộ, xác thực đây là nơi có phong thủy tốt, có thể chọn ra ngày lành bắt đầu khởi công xây dựng.
Lần này, Chu Hậu Chiếu đồng ý rất nhanh. Nó lệnh cho Khâm Thiên giám lập tức tiến hành các bước kế tiếp, điều động Đô úy Phò mã Thái Chấn(1) và Đô úy Phò mã Mã Thành(2) tế bái lăng mộ báo cáo với các vị tiên đế, đồng thời yêu cầu Thượng thư Công bộ – Tằng Giám làm lễ tế trời ở núi Thiên Thọ.
(1) Phò mã Thái Chấn: Con rể của Minh Hiến Tông (Thành Hóa đế – tức cha của Hoằng Trị đế) lấy Thuần An Công chúa vào năm 1466, vị Phò mã này chính là người duy nhất dám đứng ra thẩm tra Lưu Cẩn khi hắn bị bắt, từ đó thanh danh bắt đầu vang xa.
(2) Phò mã Mã Thành: Con rể của Minh Hiến Tông (Thành Hóa đế – tức cha của Hoằng Trị đế) lấy Nghi Hưng Công chúa vào năm 1474
Sau ba nghi lễ bái tế, hương khói cũng tàn dần.
Đạo tăng niệm kinh, thuật sĩ định huyệt, từng phiến đá được đặt vào Thái lăng.
Hoàng lăng đã được khởi công xây dựng, tuân theo thể chế, bá quan văn võ trong kinh thành đều phải mặc tang phục trong hai mươi bảy ngày, tới Tư Thiện môn khóc đủ ba ngày, từ sáng đến tối, không khóc đến khản cổ thì không xong.
Trong thời gian mặc áo tang, tất cả mọi người không được uống rượu ăn thịt, lại càng không cho phép tổ chức yến hội tìm vui, nếu thành thân, thu thê cũng phải phân phòng.
Đến ngày thứ tư, khi Hoàng thái tử tới Tây Giác môn trông coi sự vụ, việc khóc tang mới xem như được hoàn thành.
Ý chỉ được trung quan trong cung tới từng nha môn tuyên đọc, Dương Toản ở viện Hàn Lâm sao chép di chiếu để phát tới các phủ châu, vừa vặn gặp được trung quan đi tuyên chiếu.
“Dương Biên tu.”
Người tới không ai xa lạ, mà chính là vị thái giám rất vừa mắt với Dương Toản – Cốc Đại Dụng.
“Cốc Công công.”
Cốc Đại Dụng khép ống tay áo, cùng với tiểu Hoàng môn ở phía sau lưng phân nhau một người ôm cuộn lụa một người bưng hộp gỗ, cúi đầu mà đứng, bộ dạng cung kính dị thường.
“Thái tử điện hạ nghe nói Dương Biên tu được thăng quan, đặc biệt lấy vàng bạc cùng vải vóc ở tư khố ra, lệnh cho chúng ta đưa với chỗ ngài. Còn nói, chờ qua giai đoạn phát tang, sẽ đưa thêm lễ khác tới.”
“Vi thần đa tạ Điện hạ ban thưởng!”
“Nếu Dương Biên tu không rảnh, vậy chúng ta liền nhiều chuyện một hồi, trực tiếp tới quý phủ, Biên tu thấy có được không?”
“Tất nhiên là được.” Dương Toản không hề khách khí, hào sảng nói, “Thịnh tình của Cốc Công công, Dương mỗ xin tiếp nhận.”
“Ta đã sớm biết, Dương Biên tu là một người thẳng thắn mà.”
Cốc Đại Dụng cười híp mắt, Dương Toản thấy thế thì không khỏi đau răng. Quả nhiên chủ nào tớ nấy, nói năng cũng có vài phần tương tự rồi.
Tiễn bước Cốc Đại Dụng, Dương Toản quay vào phòng tiếp tục sao chép di chiếu.
Hoàng hôn buông xuống, hắn mới hoàn thành công việc được giao, gọi thư lại tới thu dọn công văn rồi chuẩn bị về nhà.
Ngoài cửa sổ mưa gió lớn dần, Dương Toản lắc lắc bả vai, cầm lấy một cây dù và mũ đi mưa đặt ở góc phòng, dập tắt ngọn nến đang cháy ở trên bàn, nhanh chân rời khỏi phòng trực.
Bắt đầu từ ngày mai, bá quan văn võ trong kinh thành, từ tam phẩm trở lên đều phải tới Tư Thiện môn báo danh. Dương Toản chỉ là một viên quan thất phẩm bé nhỏ, không có tư cách khóc lóc trước cửa cung, chỉ có thể tới nha môn khóc tang một lúc.
Ngày khóc tang, nha môn tạm dừng mọi việc, vừa vặn cho hắn thời gian đi nhờ quan nha giới thiệu người gác cổng, tôi tớ, đồng thời xử lý phòng ốc trong căn nhà mới mua.
Căn nhà có ba gian phòng lớn, năm phòng nhỏ linh tinh, bố trí khá là lộn xộn, xử lý cũng tương đối tốn công, nếu chỉ có hai người Dương Toản và Dương Thổ, thực sự là có tâm mà không có sức. Ở giữa phòng trước và phòng giữa còn có một khoảng sân nho nhỏ, xung quanh có mấy cây đào dù đã hết mùa đơm hoa, song vẫn xanh non tươi tốt.
Mấy ngày gần đây, trên cây lục tục kết thành những trái nhỏ như quả hạch đào(*), Dương Thổ mỗi ngày đứng dưới tàng cây, bộ dạng chẳng khác nào một con mèo tham ăn đang liếm mép.
(*) Quả hạch đào: hay còn gọi là quả óc chó, xem hình
Dương Toản gần như có thể khẳng định, trên cây kết bao nhiêu trái, tên nhóc kia chắc chắn nắm chắc không sai.
Từ viện Hàn Lâm đi bộ về nhà mới, cần phải đi qua vài con phố, mất một khoảng thời gian ước chừng ba khắc(*). Nếu cưỡi ngựa, tốc độ có thể nhanh hơn một chút, thế nhưng Thiên tử vừa mới băng hà, ngoại trừ Cẩm Y vệ và biên quân gấp rút vào kinh báo cáo quân tình ra thì trong thành tựa hồ không một ai phi ngựa.
(*) 1 khắc = 15’
Ngồi kiệu ấy à?
Vẫn là câu nói trước đây, phẩm cấp không đủ.
Quan viên tép riu ở chốn kinh thành, quả nhiên mỗi bước đều thực gian nan, nhà có lớn hơn thì cũng vậy.
Bước đi trên đường, mưa càng lúc càng to. Hai bên đều là tường cao sân rộng, tự nhiên sẽ không có chỗ trú chân.
Dương Toản chỉ đành kéo thấp mũ đi mưa, tận lực đẩy nhanh tốc độ, cắn răng chống đỡ mà bước về nhà.
Sắc trời dần tối, người qua kẻ lại trên đường mỗi lúc một ít đi. Gió thổi ngược chiều, Dương Toản gần như không nhìn rõ được con đường phía trước, do đó vấp chân vào bậc thềm, trực tiếp té nhào trên mặt đất.
“Thật sự là…”
Cùng với cảm giác ướt lạnh xuyên qua y sam len lỏi vào thân thể, đầu gối hắn dâng lên từng trận buốt đau, không cần nhìn cũng biết, hẳn là đã xanh tím một mảng rồi.
Đội mũ đi mưa lên một lần nữa, Dưng Toản bỗng nghe thấy một hồi tiếng vó ngựa truyền đến từ đằng sau.
Một đoàn khoái mã lao ra từ giữa màn mưa, dẫn đầu chẳng phải ai xa lạ, mà chính là Thiên hộ Cẩm Y vệ của phủ ti Bắc trấn, người đã từng có vài cơ duyên gặp gỡ với Dương Biên tu: Cố Khanh.
Cẩm y đỏ thẫm đã đổi thành áo gấm màu xanh, khăn đen chít đầu được viền bằng tơ bạc, hông buộc đai vàng, bên cạnh còn treo một thanh trường đao vỏ đen lưỡi nhỏ(*), dù chưa xé gió chém ra vẫn có thể khiến cho người ta cảm thấy rùng mình ớn lạnh.
(*) Loại đao bản nhỏ và dài (tham khảo hình). Và link này dành cho những ai không biết phân biệt đao – kiếm rồi từng nghi ngờ cái thanh bên dưới là kiếm như mị :v :v
Tuấn mã tới gần, cửa chính bá phủ mở rộng, trục cửa phát ra những tiếng vang nặng nề.
Đồng thời, cửa bên cũng được mở ra, hai người gia phó mặc quần áo đầy tớ từ trong phủ đi ra bên ngoài, không bung dù cũng không mặc áo mưa, chỉ chùm một tầng vải thô ngăn ngắn, tay cầm hai ngọn đèn lưu ly(*), đứng trên thềm đá dẫn đường.
(*) Đèn lưu ly: Đèn dầu/nến có cái chụp thủy tinh -_- tên hoa mỹ vãi…
Nhìn thấy Dương Toản đang đứng ở bậc thêm, Cố Khanh cất tiếng hỏi: “Là Dương Biên tu đó sao?”
Dương Toản khẽ nâng mũ đi mưa, nhìn về phía người vừa đến.
“Cố Thiên hộ, hạ quan có lễ.”
Thấy Dương Toản toàn thân ướt đẫm, vạt áo quan bào còn dính đất bùn, Cố Khanh loáng thoáng nhíu mày.
“Mưa càng lúc càng to, không bằng Dương Biên tu vào nhà tại hạ trú mưa một lát.”
Dương Toản lắc đầu: “Đã không còn sớm, không cần phải gây thêm phiền hà cho Thiên hộ.”
Cố Khanh không kiên trì mời mọc, cũng không lập tức hồi phủ, mà hơi hơi nghiêng người, nói với Dương Toản: “Vậy để ta đưa Dương Biên tu một đoạn đường.”
Nhìn bàn tay vừa duỗi tới trước mặt, Dương Toản không khỏi nuốt vào một ngụm nước miếng.
Đồng ý, hay là uyển cự?
(uyển cự: uyển chuyển cự tuyệt -_-)
Đáng tiếc, hấp dẫn quá lớn, hành động thế nhưng nhanh hơn rất nhiều so với suy nghĩ, đến khi Dương Toản lấy lại tinh thần thì người đã an tọa ở trên lưng ngựa, theo Cố Khanh lao vút vào màn mưa mất rồi.
Tiếng mưa, tiếng gió, tiếng vó ngựa, dần dần biến mất bên tai.
Cái mà Dương Toản có thể nghe được, chỉ là tiếng đập của trái tim mình.
Bình bịch bình bịch, trống ngực rộn ràng vang lên, trái tim như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, thắt lưng bị người giữ chặt, lại bắt đầu dấy lên từng trận nóng ran.
Nhưng mà chỉ trong nháy mắt, cổng lớn đen bóng đã xuất hiện trong mắt mắt.
“Đến rồi.”
Cố Khanh xoay người xuống ngựa trước, sau đó đỡ Dương Toản xuống theo.
Dương Thổ canh giữ ở phía cánh cổng, nghe được tiếng động, lập tức đẩy cửa chạy ra. Vừa nhìn thấy Dương Toản một thân chật vật, nó không khỏi hoảng hốt giật mình.
“Tứ lang, người làm sao vậy?”
“Tứ lang?”
Cố Khanh nhướng mày, chẳng biết tại sao, vẫn không chịu buông cánh tay Dương Toản ra.
Lỗ tai có chút nóng rát, Dương Toản mở miệng, “Dương mỗ là con thứ tư trong nhà.”
“À.”
Cố Khanh gật đầu, buông tay, tung người bay lên lưng ngựa.
“Mấy ngày gần đây kinh thành tuần tra nghiêm ngặt, nếu Dương Biên tu không có chuyện gì thì nên ở yên trong phủ. Mặt khác, một khi có việc gấp, có thể sai gia nhân tới bá phủ tìm ta.”
Nói xong, hắn kéo miếng ngọc hoàn(*) màu xanh đeo ở bên hông xuống, díu vào trong ngực Dương Toản.
(*) ngọc hoàn: là miếng ngọc hình tròn có cái lỗ to ở giữa, như hình
“Khoan đã…”
Dương Toản há hốc miệng, định nói mấy câu, song Cố Thiên hộ đã nắm chặt dây cương, quay đầu ngựa lập tức lao vào trong mưa rồi biến mất.
Thấy Dương Toản nắm chặt miếng ngọc xanh, đứng ở cạnh cửa chẳng hề nhúc nhích, Dương Thổ không thể không lên tiếng nhắc nhở.
“Tứ lang, mưa lớn như vậy, vẫn nên về phòng trước, tránh cho bị cảm lạnh.”
Nghe được mời này Dương Toản mới chợt cảm thấy toàn thân lạnh buốt, hắn nắm chặt miếng ngọc trong tay, nhanh chân bước qua cửa chính, thẳng một đường đi tới phòng ngủ ở đằng sau.
Thời điểm đi dọc hành lang, hắn lơ đễnh đảo mắt nhìn qua mấy gốc đào, bước chân nhất thời dừng lại.
Mở tay, nhìn ngọc hoàn xanh thẫm ở giữa, Dương Toảng bỗng dưng nảy sinh một nghi vấn: làm sao Cố Thiên hộ biết nhà hắn ở đâu? Chẳng lẽ, Cẩm Y vệ thực sự thần thông quảng đại, không ngõ ngách nào không có mặt như thế hay sao?
Vắt cạn óc, nhưng hắn vẫn không tìm ra đáp án.
Gió lạnh thổi qua, Dương Toản nhịn không được mà hắt hơi một cái. Hắn xoa xoa cái mũi, quyết định tạm thời không nghĩ tới vấn đề này, trước thay quan phục, uống một chén trà gừng làm ấm cơ thể rồi sẽ tính sau.
Ngày Nhâm Thân, tháng năm, năm Hoằng Trị thứ mười tám, Hoàng thái tử lên điện Phụng Thiên, thông cáo Hoàng đế về trời, đồng thời ban bố di chiếu ra khắp toàn thiên hạ, đưa tin buồn đến hoàng thất cùng phiên vương, cũng tuyên bố di mệnh của Hoàng đế: phiên vương cứ trấn thủ ở đất được phong, không cần về kinh thành chịu tang.
Rạng sáng ngày hôm sau, công – hầu – bá và các quan viên từ tam phẩm trở lên đến khóc trước Tư Thiện môn. Bá quan thân mặc sam y ống tay rộng buộc vải sô, không cài trâm không đeo ngọc bội, chỉ có khăn trắng áo tang đến trước của cung và Tư Thiện môn khóc lóc.
Ở trong kinh thành, học trò , đạo tăng, cùng các quan viên không có phẩm cấp đều là một thân tang phục, tụ tập tại phủ Thuận Thiên làm tròn đạo quân thần.
Bên trong hoàng thành, chuông đồng ngoài cửa đền chùa miếu mạo vang ba vạn tiếng, tăng nhân niệm kinh từ sáng đến tối khuya, nhất định phải đủ hai mươi bảy ngày.
Kinh thành cấm giết mổ mười ba ngày, trà quán tửu lâu không treo biển không hành nghề, chỉ được giăng đèn lồng trắng, bất kể quân hay dân đều phải mặc áo tang.
Hoằng Trị đế nhân từ độ lượng, vào ngày đại tang, cả thành đều mặc áo xô, khóc đến rung trời.
Mặc thêm một kiện áo hai lớp bên trong tang phục, Dương Toản tới trước viện Hàn Lâm khóc tang, khi sắp đến giờ Mùi liền trở về nhà.
Hôm qua mắc mưa, mặc dù đã uống canh gừng cho toát mồ hôi song hắn vẫn cảm thấy đầu óc có chút không tỉnh táo.
“Tứ lang, có cần đi tìm quan nha môi giới không?”
“Tạm thời thì chưa.”
Không có tinh thần, thời cơ cũng không đúng lắm, Dương Toản quyết định tiếp thu đề nghị của Cố Khanh, thành thật làm ổ ở nhà, chờ ba ngày nữa lại tính tiếp.
“Thế nhưng…” Dương Thổ lộ vẻ khó xử.
“Làm sao?”
“Bếp núc không người nấu nướng, hàng quán tiện ăn đều đóng vửa, trong nhà chỉ có đồ ăn lạnh, tứ lang có thể chịu đựng được không?”
Dương Toản nhất thời ngây ngẩn, lấy cái khăn vải đang phủ trên trán xuống, bất chợt nhớ ra, hắn và Dương Thổ đều không biết nấu cơm. Lúc ở quan trọ, đồ ăn thức uống luôn có đầu bếp lo liệu, sau khi chuyển nhà, ba bữa đều đi ăn hàng, phòng bếp trong nhà toàn dùng để nấu canh gừng, ngoài ra thì liền không hề dấy lên ánh lửa, nồi niêu xoong chảo cũng là đồ trang trí mà thôi.
“Cứ như vậy thì không được.”
Dùng sức ấn ấn thái dương, Dương Toản ngồi dậy.
Không lo chuyện nhà không biết về củi gạo du muối.
Trước kia chỉ muốn tìm một chỗ an cư, những cái khác hắn đều chưa cân nhắc nhiều. Hiện giờ, khi vấn đề bày ra ngay trước mắt, mới biết có đến trăm chuyện phải phiền lòng.
Người gác cổng ở tiền viện có thể thuê sau, nhưng đầu bếp thì phải mau chóng tìm mới được.
“Mấy ngày kế tiếp không tiện tìm người, ngươi đến gặp chưởng quầy quán trọ Phúc Lai, đưa chút bạc nhờ hắn mang đồ ăn tới nhà chúng ta hàng ngày. Chờ ba bốn ngày nữa là có thể tìm quan nha thuê đầu bếp.”
Dương Thổ gật gật đầu, biểu tình có chút do dự.
“Còn chuyện gì nữa?”
“Trước đây tứ lang từng nói, phải về huyện Trác Lộc thăm nhà. Hiện nay người đã đổi ý rồi ư?”
Dương Toản sững người, không trực tiếp trả lời, mà lại hỏi: “Ngươi nhớ nhà?”
“Vâng.”
“Hiện tại chưa được, chi bằng đợi hết hạn đội tang rồi tính đi.” Dương Toản thở dài một tiếng, ngón tay lướt qua hốc mắt, dùng sức nhéo lên sống mũi, “Lại bộ phê duyệt, chúng ta lập tức khởi hành.”
Dương Thổ dùng sức gật đầu, lại nói: “Ban nãy đi đường ta có mua bánh hấp, chờ để nóng lại rồi tứ lang dùng tạm đi.”
“Được.”
Thắp nến, nhóm lửa vào chậu than, Dương Thổ lấy bánh hấp ra, dùng một đôi đũa dài kẹp chặt sau đó quay quay trên ngọn lửa.
Chỉ trong chốc lát, mùi cháy khét liền lan tràn ra khắp căn phòng.
Dương Toản khụt khịt mấy cái, rốt cuộc vẫn là không yên tâm, dứt khoát đi tới nướng bánh cùng Dương Thổ.
Nướng được một nửa, chợt nghe ngoài cửa có tiếng bước chân, hắn ngẩng đầu, liền thấy trên cửa mơ hồ xuất hiện một bóng người.
Dương Thổ nhạy bén, lập tức buông đũa, cầm cái cặp gắp than lên. Dương Toản nhíu mày, ý bảo nó an tâm đừng nóng vội.
Gặp được đại tang của Hoằng Trị đế, thủ vệ kinh sư tra xét nghiêm ngặt vô cùng.
Cẩm Y vệ và Phiên tử Đông xưởng cũng ngày đêm đi tuần, bọn sâu dân mọt nước này nọ, nếu chọn đúng lúc này để bò xà nhà xông vào nhà dân thì chính là ngại mình không được chết sớm rồi.
Lại nói, hắn chỉ là một Biên tu thất phẩm của viện Hàm Lâm, dù có tiền của thì sau khi mua căn nhà này cũng chẳng còn sót lại bao nhiêu. Vải vóc Thiên tử và Thái tử ban cho đích thực đáng giá, thế nhưng đều là cống phẩm, một khi tùy tiện bán ra, tất sẽ bị điều tra.
Xem hành động của người cửa, dường như cố ý tạo ra tiếng động nhằm thu hút sự chú ý của người bên trong. Nếu thật sự là kẻ trộm, ắt không ngu xuẩn đến mức này.
“Ai ở ngoài cửa vậy?”
“Dương Biên tu thứ lỗi, tiểu nhân là gia phó của bá phủ Trường An, phụng lệnh bá gia tới quý phủ vấn an một chuyến. Bởi vì gọi cửa hồi lâu không có người đáp lại, cho nên tiểu nhân cả gan, tự tiện xông vào, xin Dương Biên tu đừng trách cứ.”
Bá phủ Trường An… Cố Khanh?
Dương Toản khẽ động trong lòng, ngăn Dương Thổ lại, tự mình bước lên mở cửa phòng.
Ngoài cửa là một nam tử trung niên ăn mặc quần áo gia nhân đang cung kính mà đứng. Người nọ thân hình thể cường tráng, nhưng diện mạo cũng thực ôn hòa.
Thấy Dương Toản lộ ra vẻ mặt hoài nghi, gia phó lập tức lấy lệnh bài bá phủ ra, nói: “Mấy ngày gần đây kinh thành liên tục mưa to gió lớn, Dương Biên tu mới chuyển nhà, nhất định không kịp nhờ quan nha tìm tôi tớ cùng đầu bếp. Bá gia và Biên tu vừa gặp mà như đã quen thân, thật tâm muốn ra tay tương trợ. Đầu bếp hiện đang ở ngoài phủ, Biên tu cứ lưu người lại mấy ngày, nếu hợp ý thì giữ, nếu không, chờ gió ngừng mưa tạnh, lại tìm đến quan nha nhờ giới thiệu người cũng không muộn.”
“Đa tạ ý tốt của Cố Thiên hộ.”
Gia phó xoay người, nở nụ cười thân thiện mà lại không cho người khác cảm giác nịnh bợ lấy lòng.
“Lời của Biên tu, nhất định tiểu nhân sẽ hồi báo tới bá gia.”
Không nói tới chuyện trước mắt hắn không thuê được đầu bếp, Cẩm Y vệ tặng người tới tận cửa, dù có không muốn cũng phải thu nhận vào.
Gia phó không chỉ mang đầu bếp tới, mà còn có cả củi gạo dầu muối và những thứ thông thường khác.
Sai Dương Thổ tiễn chân gia phó bá phủ, Dương Toản ngồi ở trong phòng, nhìn chằm chằm miếng ngọc hoàn Cố Khanh lưu lại, bỗng chốc xuất thần mất một lúc lâu.
Nhân tình của Cẩm Y vệ há lại dễ dàng thiếu nợ như vậy à, cửu thành là nơi lãi mẹ đẻ lãi con, hết nửa đời người cũng chẳng thể trả xong.
Miết đầu ngón tay vào thân miếng ngọc, Dương Toản cúi đầu khe khẽ thở dài, một tay che mặt.
Nhưng tại sao, hắn vẫn cảm thấy đây là mình được lợi?
Quả thực không còn thuốc chữa, nhân sinh xem như đã hỏng rồi!
Dương Biên tu ngồi đây lắc đầu cảm thán. Mà ở trong cung, Chu Hậu Chiếu càng ngày càng khó chịu.
Ngày Quý Tị, tháng sáu, lễ khóc tang đã xong xuôi, văn võ bá quan cùng toàn thế quân dân trong thành lập tức thuận theo lệ cũ, lên tiếng thỉnh cầu Hoàng thái tử đăng cơ kế thừa đại nghiệp.
Dựa theo thể chế, Hoàng thái tử không thể một hơi đáp ứng ngay mà phải uyển cự vài lần mới được gật đầu.
Không đăng đại vị, nhưng việc lên triều nghe báo cáo và quyết định chính sự lại không thể nào trì hoãn.
Nhớ kỹ lời dặn của Hoằng Trị đế, Chu Hậu Chiếu cũng muốn tạo ra một phen thành tựu. Chiếu theo tấu chương Nội các dâng lên, nó ôm một lòng tràn trề nhiệt huyết di giá đến Tây Giác môn, song mới vừa đặt mông ngồi xuống chưa đầy một khắc, đã bị hắt ngay bát nước lạnh lên đầu.
Văn võ bá quan trong triều không vội vàng bẩm tấu chuyện quốc gia đại sự, ngược lại mấy tên ngôn quan bỗng chốc nhảy ra, phát biểu đủ loại ý kiến đối với tư thế ngồi của Thái tử điện hạ, cùng với y phục ngọc trâm linh tinh.
Chu Hậu Chiếu nhíu mày, cúi đầu nhìn thử bản thân mình, cũng không phải chính thức thượng triều, nó mặc thường phục thì có làm sao? Vẫn đang trong thời gian chịu tang phụ hoàng, nó không đội mũ thì lại có ảnh hưởng đến ai hả?
Còn cái vấn đề tư thế ngồi không đoan chính này nọ, cái đó và xử lý triều chính có quan hệ gì nào?
Đúng là quăng tám cái sào cũng chẳng tới gót!
Ngôn quan lải nhải, không hề có ý định dừng lại, còn kéo luôn cả chuyện Chu Hậu Chiếu triệu Dương Toản vào cung, bí mật thương nghị trong Noãn các, không đánh tiếng với Nội các triều đình, trái với lễ nghi. Đám người này, chỉ còn thiếu mỗi nước bảo Dương Toản là nịnh thần gian ác, là kẻ tiểu nhân chăm chăm lấy lòng Thái tử nữa mà thôi.
Sắc mặt Chu Hậu Chiếu càng ngày càng đen, đến khi nghe hết một câu cuối cùng, nó liền vỗ mạnh một cái lên long ỷ: “Đủ rồi!”
“Điện hạ!”
Ngôn quan gân cổ, mặt mũi đỏ lên.
Chu Hậu Chiếu không để ý tới hắn, trực tiếp lệnh cho Trương Vĩnh dâng mật chỉ của tiên hoàng.
“Tuyên đọc!”
Đạo mật chỉ này, chỉ có Nội các và Thượng thư Lại bộ được thấy qua, phần đông quan viên trong triều đều hoàn toàn không biết đến.
“Xét thấy Biên tu viện Hàn Lâm Dương Toản đôn hậu khiêm nhường, tài năng xuất chúng, … nay bổ nhiệm làm Thị đọc(1) viện Hàn Lâm, thụ phong Phụng huấn Đại phu(2), kiêm Tả dụ đức(3), dạy và học tại Hoằng Văn quán.”
(1) Thị đọc: chức quan ngũ phẩm thời Minh, làm việc ở viện Hàm Lâm hoặc Nội các, có nhiệm vụ biên soạn sử thư, chỉnh lý tu sửa văn chương, là chức quan cao cấp trong hàng Học sĩ
(2) Phụng huấn Đại phu: chức quan văn ngũ phẩm thời Minh
(3) Tả dụ đức: Chức quan thuộc Đông Cung, có nhiệm vụ can gián khuyên bản Thái tử
Sắc lệnh được đọc xong, toàn triều đều rơi vào tĩnh lặng.
Ngũ phẩm? !
Cấp sự trung vừa mới lên tiếng bẩm tấu nhất thời biến sắc, bỗng nhiên cảm thấy xấu hổ cực kỳ.
Ba vị Các lão đứng vững như bàn thạch, vẻ mặt tuyệt nhiên không hề thay đổi.
Thượng thư lục bộ, ngoại trừ Mã Văn Thăng đã biết từ sớm ra, ngay cả Thượng thư Hộ bộ Hàn Văn cũng đều cảm thấy bất ngờ. Hai vị Học sĩ Hàn Lâm lại khẽ vuốt cằm, Dương Toản này, mắt tinh tai thính, ý chí kiên định, hoài bão lớn lao, giữ mình chính trực, có thể khuyên nhủ Thái tử điện hạ dốc lòng cầu học, xứng đáng đảm đương trọng trách.
Dương Toản không ở trên điện, nhưng sẽ có trung quan tới tận nhà tuyên đọc ý chỉ.
Không đợi đa số những người có mặt ở đây hồi phục tinh thần, Trương Vĩnh lại mở ra một cuộn lụa vàng, là sắc lệnh đích thân Chu Hậu Chiếu viết, được đóng bảo ấn Thái tử bên trên.
Nội dung sắc lệnh không phải phong thưởng, mà lột mũ ô sa của hơn mười người, trong đó ba người chém đầu, mười một người đầy đi Tây Nam và mạn Bắc thủ biên, xui xẻo hơn một chút thì bị sung quân về phủ Quỳnh Châu, núi cao sông dài, vĩnh viễn không được quay về triều nữa.
Diêm Hoàn hiển nhiên nằm trong danh sách, Thiêm Đô Ngự sử trực tiếp giáng làm thứ thân, đầy về Ninh Hạ trông coi biên cảnh.
Căn cứ những gì Cẩm Y vệ tra được, một hồi chân tướng được phơi bày trước mặt văn võ bá quan, bất kể là Đô Sát viện hay lục bộ, đều có kẻ dính líu vào. Tả- Hữu Đô Ngự sử trên mặt không còn ánh sáng, Cấp sự trung lục bộ chỉ hận không thể đào gạch tìm hố mà giấu mình.
“Đoạt quan bào ô sa của tội nhân, lập tức áp giải tới nơi biên cảnh!”
“Đặc xá cũng không tha!”
Mấy tiếng vừa rơi xuống, hệt như thanh âm phát ra từ cái chuông khổng lồ, vang vọng trong óc mọi người triền miên dai dẳng không thôi.
Văn võ bá quan lặng im không tiếng động, Đại hán Tướng quân hung hăng xông vào, đem đám phạm quan đang quỳ rạp trên mặt đất lần lượt lôi đi.
Đến khi bên tai vang lên tiếng phạm quan cầu xin tha thứ, mọi người mới giật mình như vừa tỉnh dậy khỏi giấc mộng dài.
Tiên đế trăm tuổi, tân hoàng chưa đại xá đã hỏi tội cả đám người, hơn mười quan viên bị lột mũ ô sa, sung quân đầy đi biên giới.
Biến hóa tới quá đột ngột, thực khiến toàn triều không kịp trở tay. Động thái này càng làm hồi chuông cảnh tỉnh trong đầu bọn họ reo vang mãi không ngừng lại.
Vị Thái tử điện hạ hiếu động ham chơi này, chỉ sợ hoàn toàn khác xa những gì mọi người dự đoán. Xét về tính cách, chắc chắn không nhân hậu như tiên đế, trái lại sát phạt quyết đoán không kém Thánh tổ Cao Hoàng đế cùng Thái tông Hoàng đế là bao.
Minh quân?
Bạo quân?
Đối với vạn dân khắp toàn thiên hạ, đến tột cùng là họa hay là phúc đây?
Tạ Thiên đột ngột nhìn về phía Lý Đông Dương, người sau cũng là khẽ híp mắt lại, trầm tĩnh mà lặng im.
Chu Hậu Chiếu chưa đăng bảo vị, triều đình đã nổi lên từng gợn sóng rồi.
Cùng lúc đó, ba con khoái mã từ phương Bắc phu như bay tới, bụng ngựa tựa hồ dán vào mặt đất, kỵ sĩ bên trên lập tức phất tung vạt áo nhiễm máu, vươn tay lau đi bụi đất trên khuôn mặt phong trần.
Thị vệ canh gác ở cửa thành phát hiện dị trạng, liền mãnh liệt gõ chiêng đồng.
Khoái mã phi nước đại tới Huyền Vũ môn, miệng lập tức sùi bọt mép, chống đỡ hết nổi mà ngã nhào xuống đất. Kỵ sĩ lăn trên mặt đất mấy vòng, không buồn đứng dậy, cứ thế mà khàn giọng quát lớn: “Biên cảnh có cấp báo, Tác-ta ồ ạt dấy binh, rình rập muốn đánh vào Tuyên phủ!”